|
Post by culadharma on Sept 12, 2013 10:19:45 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU HOÀN HẢO
(1) Đối với người khả năng bậc thấp, tin vào luật nhân quả là cái thấy hoàn hảo. (2) Đối với người khả năng bậc trung, chứng ngộ rằng tất cả các pháp bên trong và bên ngoài là bốn sự hợp nhất – hiện tượng và tánh Không, Sáng tỏ và tánh Không, Lạc và Không, giác và Không – là cái thấy hoàn hảo. (3) Đối với người khả năng bậc cao, chứng ngộ rằng cái được thấy, người thấy và sự chứng ngộ là hợp nhất không thể phân chia, là cái thấy hoàn hảo.(7) (4) Đối với người khả năng bậc thấp, trụ nhất tâm vào đối tượng là thiền định hoàn hảo. (5) Đối với người khả năng bậc trung, trụ trong định (samadhi) của bốn sự hợp nhất là thiền định hoàn hảo. (6) Đối với người khả năng bậc cao, trụ không ý niệm trong sự hợp nhất không thể phân chia của cái được thiền định, người thiền định và sự thực hành thiền định là thiền định hoàn hảo. (7) Đối với người khả năng bậc thấp, giữ gìn luật nhân quả như con ngươi của mắt mình là hạnh hoàn hảo. (8) Đối với người khả năng bậc trung, kinh nghiệm của tất cả các pháp như mộng và như huyễn là hạnh hoàn hảo. (9) Đối với người khả năng bậc cao, không có hạnh nào cả là hạnh hoàn hảo. (10) Đối với những người của cả ba cấp bậc khả năng này, sự tịch diệt của tất cả phiền não và chấp ngã là dấu hiệu hoàn hảo của tiến bộ tâm linh. Đây là Mười Điều Hoàn Hảo.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 12, 2013 21:51:26 GMT 7
MƯỜI LỖI LẦM TRẦM TRỌNG CỦA HÀNH GIẢ
(1) Không nương dựa vào một Guru thực hành thích đáng Pháp mà theo một kẻ lừa bịp khéo mồm là một lỗi lầm trầm trọng. (2) Không tìm kiếm những giáo huấn của những bậc Thành Tựu của dòng khẩu truyền mà sốt sắng nhấn mạnh vào giáo pháp thuần túy trí thức vô bổ là một lỗi lầm trầm trọng. (3) Không trải qua đời người của mình trong sự bằng lòng với bất cứ hình tướng gì khởi lên trong khoảnh khắc, mà hoạch định những chương trình căn cứ trên giả định rằng sự vật sẽ còn mãi là một lỗi lầm trầm trọng. (4) Không suy nghĩ về nghĩa của Pháp khi sống một mình, mà giảng dạy nó ở giữa đám đông là một lỗi lầm trầm trọng. (5) Không dùng của cải để cúng dường và bố thí, mà tích chứa với sự tham lam và bằng lừa dối là một lỗi lầm trầm trọng. (6) Không giữ gìn thích đáng những lời thệ nguyện và samaya của mình mà cẩu thả buông lung ba cửa thân ngữ tâm là một lỗi lầm trầm trọng. (7) Không tự làm quen thuộc với sự thấu hiểu bản tánh chân thật của sự vật mà tiêu phí đời mình trong những hy vọng và sợ hãi thế gian vô ích là một lỗi lầm trầm trọng. (8) Không thuần hóa mê muội của chính mình mà ẩu tả và ngu ngốc thuần hóa tâm thức của những người khác là một lỗi lầm trầm trọng. (9) Không củng cố kinh nghiệm đã sanh trong tâm mà trau dồi những đường lối để thành tựu những thành công trong thế gian là một lỗi lầm trầm trọng. (10) Giờ đây, khi những điều kiện tốt lành đã tụ lại đầy đủ, không dấn thân vào tinh tấn mà thích thú trong lười biếng và thụ động là một lỗi lầm trầm trọng. Đây là Mười Lỗi Lầm Trầm Trọng Của Hành Giả.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 12, 2013 21:54:01 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU CẦN THIẾT
(1) Lúc Bắt đầu, niềm tin đích thực khởi lên từ sự kinh sợ dòng tương tục tiếp nối của sanh và tử là cần thiết, giống như sự mong mỏi của một con nai thoát ra khỏi cái bẫy.
(2) Ở chặng giữa, sự chuyên cần đến nỗi người ta không tiếc đến cả việc mất thân mạng mình là cần thiết, giống như người làm nông khi vụ gặt. (3) Vào lúc chót, một tâm thức hoan hỷ không mất là cần thiết, giống như một người đã hoàn thành một công việc lớn lao. (4) Lúc bắt đầu, một nhận biết sự khẩn cấp là cần thiết, như một người bị thương rất nguy hiểm bởi một mũi tên. (5) Ở chặng giữa, thiền định không phóng tâm là cần thiết, như những cảm giác mãnh liệt của một người mẹ đã mất đứa con độc nhất của mình. (6) Vào lúc chót, một nhận biết rằng không có gì để phải làm là cần thiết, như một người chăn gia súc mà đàn gia súc của nó đã bị kẻ trộm tháo chuồng thoát hết vào rừng. (7) Lúc bắt đầu, sự phát sanh xác tín đối với Pháp là cần thiết, như cảm giác một người đói gặp được thức ăn ngon. (8) Ở chặng giữa, sự phát sanh xác tín đối với tự tâm mình là cần thiết, như thái độ của một lực sĩ cầm giữ viên ngọc quý giá vừa gặp được. (9) Vào lúc chót, sự phát sanh xác tín đối với tánh bất nhị và xác tín đối với sự giả dối của nhị nguyên là cần thiết, như sự vạch trần cái giả dối của một tên nói láo lường gạt. (10) Sự kiên định trong tánh Như là cần thiết, như một con quạ đậu trên cột buồm của một con tàu giữa đại dương (nó không thể bay đi đâu khác mà không chết trong biển cả sanh tử). Đây là Mười Điều Cần Thiết.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 12, 2013 21:56:38 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU KHÔNG CẦN THIẾT
(1) Nếu bản thân tâm thức đã được chứng ngộ là trống không, bấy giờ nghe và suy nghĩ không còn cần thiết. (2) Nếu cái tỉnh giác đã được nhận biết là không nhiễm ô, bấy giờ sự tịnh hóa những tà hạnh là không còn cần thiết. (3) Nếu người ta an trụ trong Con Đường Tự Nhiên (của Đại Ấn và Đại Toàn Thiện), bấy giờ những sự tích tập (phước đức và trí huệ) là không còn cần thiết. (4) Nếu người ta tu hành trạng thái tự nhiên, bây giờ thiền định về con đường phương tiện là không còn cần thiết. (5) Nếu người ta nhận biết những tư tưởng chính là Pháp tánh, bấy giờ thiền định vô niệm là không còn cần thiết. (6) Nếu những phiền não được nhận biết là không gốc rễ, không tự tánh, bấy giờ việc nương dựa vào những đối trị của chúng là không còn cần thiết. (7) Nếu những sắc tướng và âm thanh được nhận biết là như huyễn, bấy giờ hủy bỏ và tạo lập là không còn cần thiết. (8) Nếu khổ đau được nhận biết là những ban phước và thành tựu (siddhi), bấy giờ tìm kiếm hạnh phúc là không còn cần thiết. (9) Nếu tâm thức mình đã được chứng ngộ là vô sanh, bấy giờ pháp chuyển di tâm thức (powa) là không còn cần thiết. (10) Nếu trong mọi việc người ta làm đều chỉ vì lợi lạc cho những người khác, bấy giờ sự hoàn thành lợi lạc cho chính mình là không còn cần thiết. Đây là Mười Điều Không Cần Thiết.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 12, 2013 21:57:32 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU QUÝ GIÁ HƠN
(1) Một đời người tự do và đầy đủ thì quý giá hơn tất cả những đời khác ở trong sáu loài không được làm người. (2) Một người biết Pháp thì quý giá hơn tất cả những người thế gian không có Pháp. (3) Thừa của thật nghĩa này thì quý giá hơn những con đường của mọi thừa khác. (4) Một khoảnh khắc của hiểu biết khởi ra từ thiền định thì quý giá hơn tất cả hiểu biết khởi ra từ nghe và suy nghĩ. (5) Một khoảnh khắc của công đức không do hợp tạo (người làm, người nhận và việc làm đều không tịch) thì quý giá hơn mọi công đức có được. (6) Một khoảnh khắc của đại định không có ý niệm thì quý giá hơn mọi cái định còn nằm trong vòng ý niệm. (7) Một khoảnh khắc của đức hạnh không nhiễm ô thì quý giá hơn mọi đức hạnh nhiễm ô(8) có thể có được. (8) Một khoảnh khắc chứng ngộ An Lạc khởi lên thì quý giá hơn tất cả kinh nghiệm khởi lên trong tâm. (9) Một khoảnh khắc của hạnh vô ngã thì quý giá hơn tất cả những đức hạnh có ngã có thể có được. (10) Không trụ vào bất cứ cái gì thì quý giá hơn tất cả những bố thí vật chất có thể có được. Đây là Mười Điều Quý Giá Hơn.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 13, 2013 17:49:20 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU TỐT NHƯ NHAU
(1) Đối với người mà tâm đã đi vào Pháp, thì từ bỏ những hoạt động thế gian hay không từ bỏ, đều tốt như nhau. (2) Đối với người đã thấu triệt bản tánh của tâm thức, thì thiền định hay không thiền định đều tốt như nhau. (3) Đối với người đã cắt đứt sự ràng buộc vào mọi sự vật thích thú, thì theo một đời sống khổ hạnh hay không đều tốt như nhau. (4) Đối với người đã chứng ngộ Pháp tánh, thì ngủ trong một hang núi cô quạnh hay hướng dẫn một cộng đồng rộng lớn đều tốt như nhau. (5) Đối với người nhận biết các hình tướng đều như huyễn, thì sống ẩn cư một mình hay lang thang khắp chốn đều tốt như nhau. (6) Đối với người đã đạt đến tự do của tâm thức, thì từ bỏ những sự vật thích thú của thế gian hay không đều tốt như nhau. (7) Đối với người đầy đủ lòng bi của Bồ Đề tâm, thì thiền định nơi hoang vắng hay làm việc cho sự tốt đẹp của những người khác giữa xã hội đều tốt như nhau. (8) Đối với người mà lòng sùng mộ với Guru của mình không hề dao động, thì sống với Guru hay không đều tốt như nhau. (9) Đối với người đã nghe nhiều và hiểu điều mình đã được nghe, thì gặp hanh thông hay chướng ngại đều tốt như nhau. (10) Đối với người đã thành tựu chứng ngộ tối thượng, thì có hay không có những thành tựu thông thường (những thần thông thế gian) đều tốt như nhau. Đây là Mười Điều Tốt Như Nhau.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 13, 2013 17:51:05 GMT 7
MƯỜI ĐỨC HẠNH CỦA CHÁNH PHÁP (1) Sự kiện rằng giữa loài người, Thập Thiện, Sáu Ba La Mật, Tánh Không, tác nhân của sự thức tỉnh, Bốn Chân Lý Cao Cả, Bốn Thiền, Bốn Định Vô Sắc, những phương diện làm trưởng thành và giải thoát của mật chú v.v... được biết đến, đó là sự biểu lộ đức hạnh của Chánh Pháp. (2) Sự kiện rằng có xuất hiện trong thế gian những hoàng tử và Bà la môn giác ngộ, Bốn Đại Hộ Pháp Thiên Vương, sáu loài chư Thiên cõi dục, mười bảy loài chư Thiên cõi sắc, và bốn loài chư Thiên cõi vô sắc, đó là sự biểu lộ đức hạnh của Chánh Pháp. (3) Sự kiện rằng có hiện diện trong đời những vị Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và A La Hán, Độc Giác Phật và chư Phật toàn giác, đó là sự biểu lộ đức hạnh của Chánh Pháp. (4) Sự kiện rằng có những Người đã đạt đến Giác Ngộ và trở lại trong thế gian với hai thân khởi từ Đại Bi và làm việc cho sự giải thoát của loài người và tất cả chúng sanh cho đến khi nào sanh tử trống trơn, nhờ năng lực của Bồ đề tâm và những thệ nguyện, đó là sự biểu lộ đức hạnh của Chánh Pháp. (5) Sự kiện rằng có tất cả những phương tiện tuyệt hảo để gia bị, hộ trì cho chúng sanh qua năng lực những nguyện vọng từ bi của những Bồ tát, đó là sự biểu lộ của Chánh Pháp. (6) Sự kiện rằng người ta trải nghiệm những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi, nhẹ nhàng ngay trong cõi thấp bất hạnh và trong những trạng thái khổ đau không ngừng nghỉ như là một hậu quả trực tiếp của công đức của những thiện nghiệp, chứng tỏ đức hạnh của Chánh Pháp. (7) Sự kiện rằng những người sau khi sống cuộc đời xấu xa đã từ bỏ thế gian và trở thành những vị Thánh được mọi người tôn trọng chứng tỏ đức hạnh của Chánh Pháp. (8) Sự kiện rằng những người đã tích tập nghiệp nặng sẽ phải đọa vào sự khổ đau không dứt trong những địa ngục sau khi chết nhưng đã quay về với Pháp và đạt đến những cõi giới cao và Niết Bàn chứng tỏ đức hạnh của Chánh Pháp. (9) Sự kiện rằng chỉ tin vào Pháp, thiền định về Pháp hay chỉ mặc y Tỳ kheo, khiến người ta trở nên được người khác kính trọng và làm họ vui sướng chứng tỏ đức hạnh của Chánh Pháp. (10) Sự kiện rằng người ta, sau khi đã từ bỏ mọi tài sản, nhà cửa trở thành không nhà và ẩn mình nơi những chỗ ẩn cư hẻo lánh vẫn còn được tìm kiếm và cung cấp đồ cúng dường chứng tỏ đức hạnh của Chánh Pháp. Đây là Mười Đức Hạnh Của Chánh Pháp.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 13, 2013 17:54:51 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU CHỈ LÀ DANH TỪ
(1) Bởi vì bản tánh của nền tảng thì không thể diễn tả, nên nền tảng chỉ là một danh từ. (2) Bởi vì trong con đường, không có cái gì để trải qua và không có ai trải qua, nên con đường chỉ là một danh từ. (3) Bởi vì trong sự thật không có cái gì để thấy và không ai thấy, thành ngữ thấy tánh chỉ là một danh từ. (4) Bởi vì trong trạng thái bổn nhiên, không có gì để thiền định và không có ai thiền định, nên kinh nghiệm chỉ là một danh từ. (5) Bởi vì trong bản tánh tối hậu, không có cái gì để được làm và không có ai làm, nên hạnh chỉ là một danh từ. (6) Bởi vì rốt ráo không có cái gì để giữ gìn và không có ai giữ gìn, nên samaya chỉ là một danh từ. (7) Bởi vì rốt ráo không có cái gì để tích tập và không có ai là người tích tập, nên hai sự tích tập chỉ là một danh từ. (8) Bởi vì rốt ráo không có cái gì để tịnh trừ và không có ai là người tịnh trừ, nên hai che chướng chỉ là một danh từ. (9) Bởi vì rốt ráo không có cái gì để từ bỏ và không có ai là người từ bỏ, nên sanh tử chỉ là một danh từ. (10) Bởi vì rốt ráo không có cái gì để đạt được và không có ai là người đạt được, nên quả chỉ là một danh từ. Đây là Mười Điều Chỉ Là Danh Từ.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 13, 2013 18:10:42 GMT 7
MƯỜI ĐIỀU HIỆN DIỆN TỰ NHIÊN NHƯ LÀ ĐẠI AN LẠC
(1) Bởi vì bản tánh của tâm thức của tất cả chúng sanh là Pháp Thân, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (2) Bởi vì trong nền tảng, tức là pháp giới tánh, không có mọi tạo tác về đặc tính thuộc danh tướng, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (3) Bởi vì trong chứng ngộ siêu vượt khỏi tri thức và ý niệm biên kiến không có mọi tạo tác phân biệt, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (4) Bởi vì trong kinh nghiệm trạng thái bổn nhiên vô sanh của tâm, không có mọi tạo tác ý niệm, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (5) Bởi vì trong hạnh không cố gắng, thoát khỏi mọi hành động, không có những tạo tác lấy và bỏ, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (6) Bởi vì trong Pháp thân – hư không và trí huệ không tách lìa nhau – không có những tạo tác của cái được thấu hiểu và cái đang thấu hiểu, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (7) Bởi vì trong Báo Thân – đại bi tự khởi – không có những tạo tác của sanh, tử, chuyển di hay biến đổi, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (8) Bởi vì trong Hóa Thân – đại bi tự khởi – không có những tạo tác của tri giác về những hình tướng nhị nguyên, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (9) Bởi trong pháp luân của giáo lý, không có những tạo tác của cái thấy về một bản ngã hay về những đặc tính, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. (10) Bởi vì trong hoạt động của Đại Bi vô biên không có phần hạn thiên vị hay phân đoạn thời gian, đó là cái hiện diện tự nhiên như là Đại An Lạc. Đây là Mười Điều Hiện Diện Tự Nhiên Như Là Đại An Lạc. Vòng Hoa Quý Báu Của Con Đường Tối Thượng này là một sưu tập những giáo huấn bất nhiễm được nghe từ những vị Guru Kadampa hiền thiện của truyền thống Dipankara, cha (Atisha) và con (Dromtonpa), những vị hoằng dương giáo lý trong miền Bắc vùng Himalaya, những Guru trí huệ sáng ngời và những Bổn tôn như Jetsun Drolma ; và từ Vua của các Yoyi, Milarepa, người giữ dòng phái tinh túy cam lồ của những thành tựu giả uyên bác như Marpa xứ Lhodrak và những con người tối thượng Naropa và Maitripa, được biết bên Ấn Độ như Mặt Trời và Mặt Trăng. Sách này được viết bởi Sonam Rinchen, thiền giả xứ Nyi, từ Drakpo trong miền Đông, một người giữ kho tàng của Kadampa và những giáo huấn Mahamudra. [Lời Bạt] Đức Gampopa đã nói : “Với tất cả những ai trong tương lai kính ngưỡng tôi, họ nghĩ rằng không thể gặp tôi : Hãy đọc những bản văn tôi đã viết, như Một Vòng Hoa Quý Báu của Con Đường Tối Thượng và Trang Hoàng của Giải Thoát Quý Báu. Việc ấy sẽ không khác gì gặp đích thân tôi.” Bởi vì Ngài đã nói thế, các bạn là những người may mắn đã kính ngưỡng đức Gampopa, xin hãy chuyên cần truyền bá những bản văn này. Sarva mangalam.
|
|
|
Post by culadharma on Sept 13, 2013 18:27:35 GMT 7
CHÚ THÍCH Vòng Hoa Quý Báu Của Con Đường Tối Thượng được dịch ra tiếng Việt từ hai bản tiếng Anh, một của Lama Yeshe Gyamso và Lama M. Roth (The Instructions of Gampopa – A Precious Garland of the Supreme Path – NXB. Snow Lion, 1996) và một của Evans Wentz (trong Tibetan Yoga and Secret Doctrines, in lần đầu năm 1935). Bản tiếng Việt lấy bản của Lama Yeshe Gyamtso làm chính về phần ý nghĩa, còn bản của Evans Wentz để bổ túc về phần văn chương. Về phần chú thích chúng tôi chỉ chú thích những từ và nghĩa cần thiết để hiểu câu văn mà không chú thích từng câu. Không giải thích từng câu vì để cho người đọc tiếp xúc trực tiếp với những lời dạy của đức Gampopa, từ đó soi rọi vào bước chân của mình trên con đường, mình đã đi đến đâu, có thể có những lầm lẫn gì, những điều gì đã làm được, những điều gì chưa làm được, hầu tiến bộ và hoàn thành con đường. Sự giải thích theo một khuynh hướng tông phái nào đó, dù là Thiền tông, Đại Toàn Thiện, Đại Ấn hay Mật thừa, Tịnh độ đều có thể làm giới hạn ý nghĩa trực tiếp của điều đức Gampopa muốn nói, và Ngài nói là để cho mọi hành giả của mọi tông phái. Những chỉ dạy này áp dụng cho tất cả những hành giả ở mọi cấp độ – chỉ trừ những vị đã bước vào con đường không học nữa – thành thử chúng ích lợi cho bất kỳ một ai đang ở trên đường Đạo, dù ở địa vị nào. Ví dụ câu (1) và (2) của mục thứ 11 : Dục vọng có thể được lầm là đức tin. Ái luyến có thể được lầm là từ bi. Hai câu này không chỉ áp dụng và cần được dùng để soi sáng cho mình ở những người sơ học mới bước vào con đường, mà ở cả những vị đã tiến bộ rất cao, nhưng còn vô minh vi tế, phiền não chướng và sở tri chướng vi tế, tức là các Bồ tát ở các địa, lời dạy ấy vẫn còn có giá trị. Tóm lại, đây là những lời dạy được áp dụng suốt hết con đường, bởi thế chúng có giá trị cho bất kỳ người nào, trong thời gian không gian nào và không phải chúng cần được nghe (Văn) mà còn phải suy nghĩ (tư duy) và thiền định (Tu). Mong rằng mọi người đều được lợi lạc. -------------------------------------------------- 1. Mỗi thực hành nào cũng có ba phần, còn được gọi là ba sự tuyệt hảo. Phần chuẩn bị tức là phát Bồ đề tâm. Phần chính là sự thực hành của pháp đó. Và phần kết thúc là sự hồi hướng. 2. Con đường của phương tiện. Con đường của những pháp môn tu hành. Con đường của những pháp môn tu hành có tu có chứng này rất cần để bổ túc con đường của trí huệ là vô tu vô chứng. Thiền tông có câu nói : Trong chỗ thật tế thì không thọ một mảy trần, nhưng trong muôn hạnh thì không bỏ một pháp. (Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp). Đại toàn thiện cũng nói rằng, người ta đi xuống với cái thấy “không có pháp gì để tu để chứng vì tất cả vốn Không”, đồng thời cũng đi lên bằng các hạnh, các hoạt động tu hành, các pháp môn có tính tương đối như ngồi thiền, tụng kinh, trì chú, thuyết pháp, năm ba la mật đầu... hay các việc chấp tác, quét nhà... Con đường trí huệ là chân lý tuyệt đối, con đường phương tiện là chân lý tương đối. Theo Trung Đạo, thành Phật là sự kết hợp rốt ráo hai chân lý này, nghĩa là sự hợp nhất của Trí Huệ tánh Không và Đại Bi phương tiện. 3. Ba mạn đà la là xem thân mình là hóa thần bổn tôn, ngữ và mọi âm thanh là thần chú và bất kỳ cái gì xảy ra trong tâm thức là sự diễn xuất của trí huệ. Như thế, hành giả hộ trì thân, ngữ và tâm thức như là thân, ngữ, tâm của tất cả chư Phật. 4. Tà kiến gán ghép thêm vào thực tại : vô ngã mà cho là ngã, vô thường mà cho là thường, không có bản chất mà cho là có bản chất... 5. Trong bản dịch của Evans-Wentz đủ mười hai điều. Trong bản dịch của Lama Yeshe Gyamso nêu lên rằng bản in gỗ của Tây Tạng ở đầu mục ghi 12 điều, nhưng ở phần dưới chỉ có 11 điều. 6. Hai câu (10) và (11) : Hai câu này nói về kết quả của thực hành khi người ta phải trải qua cái chết. Ban đầu được thầy chỉ thẳng cho bản tánh của chính mình và tất cả sự vật, đó là cái thấy. Tiếp theo trau dồi nó, thiền định về nó, đó là thiền định. Rồi sống với cái thấy tánh Không hay pháp giới tánh ấy qua mọi hoàn cảnh, trong mọi hình thức pháp môn tu hành cho đến khi pháp giới tánh hiển lộ hoàn toàn, đó là quả. Có quả đó luôn luôn hiện tiền, tức là “niềm tin không thể khuất phục cùng với sự an lạc của tâm”, người ta đi vào cái chết, tức là sự lìa bỏ xác thân. Với quả đó, tức là sự chứng ngộ hoàn toàn bản tánh của thực tại, người ta có thể đi vào Pháp Thân, Báo thân và Hóa thân tùy theo sự chọn lựa và thệ nguyện độ sanh. Xem thêm câu (9) mục 17. 7. Ba câu này, người khả năng bậc thấp cần nhấn mạnh và chú ý luật nhân quả, người khả năng bậc trung và bậc cao cần nhấn mạnh và chú ý tánh Không. Cần biết rằng tùy theo khả năng mà sự quan tâm tu hành có khác, nhưng không có nghĩa là đối với người khả năng bậc cao là chỉ chú ý tánh Không mà không để ý tới luật nhân quả, bởi vì dù khả năng nào, nhân quả cũng tác động. Nhân quả là chân lý tương đối, tánh Không là chân lý tuyệt đối. Đủ cả hai chân lý này, không bỏ cái nào, mới có thể đạt đến giác ngộ. Cũng như ba câu sau (4), (5), (6), “trụ nhất tâm vào đối tượng” là thiền định hoàn hảo của người khả năng bậc thấp, thì sự việc “trụ nhất tâm vào đối tượng” này, vẫn áp dụng cho người khả năng bậc cao, chỉ có điều khác là với người khả năng bậc cao, “đối tượng” ở đây chính là tánh Không không có ý niệm, không có phân chia chủ thể – khách thể. Bởi thế trong phần mục 20 này, mỗi điều đều dùng chữ “hoàn hảo”, để nói lên tánh phổ quát của mỗi điều cho tất cả mọi cấp bậc. 8. Đức hạnh nhiễm ô là đức hạnh ở trong vòng chấp ngã và chấp pháp, người làm, người nhận và việc làm chưa được không tịch, nghĩa là còn trong vòng sanh khởi của phiền não.
|
|