|
Post by Admin on Sept 19, 2013 11:10:56 GMT 7
Thích Bồ Ðề Tâm Luận (Bodhichittavivarana) (Jangchup Semdrel) Long Thọ Bồ Tát
Xin kính lễ Đấng Trang Nghiêm Kim Cang Tát Đỏa ! Chư tôn đã tuyên thuyết: - Không có tự tánh;
Xả bỏ tất cả Chủ thể, đối tượng, Như uẩn, giới, xứ; Vì tính bình đẳng Vạn pháp vô ngã, Tâm vốn bất sinh; Và cũng chính là Bản thể tánh không.
Cũng như chư Thế Tôn và chư Ðại Bồ Tát đã phát tâm nguyện đại bồ đề, từ bây giờ cho đến khi viên mãn tâm bồ đề,đệ tử cũng xin phát nguyện tâm bồ đề này, trong mục đích độ các chúng sinh chưa được độ, giải thoát các chúng sinh chưa giải thoát, an hòa các chúng sinh chưa được an hòa, giúp vượt thoát phiền não cho các chúng sinh chưa vượt thoát phiền não. Sau khi phát nguyện Bồ Đề Tâm tương đối dưới dạng của nguyện tâm, chư vị bồ tát hành trì pháp mật chú [sau đó] phải thành tựu Bồ Đề Tâm Cứu Cánh qua sức mạnh của tu tập thiền định. Do đó, tôi xin thuyết giảng về bản thể của tâm này.
- 1. Cúi xin đảnh lễ
Trước bậc Trang Nghiêm Ðấng Kim Cang Trì, Là hiện thân của Chính Tâm Bồ Đề Và xin thuyết giảng Thiền định Bồ Đề Chấm dứt luân hồi.
2. Chư Phật xác quyết, Tâm Bồ Đề này Không bị che mờ Của mọi khái niệm Như chấp ngã, uẩn, v.v..; Nó vốn luôn có , Đặc điểm tánh không.
3. Với dòng tâm thức Thấm nhuần từ bi, Ta hãy tinh tấn Phát [tâm Bồ Đề]. Chư Phật, hiện thân Của đại từ bi, Luôn luôn phát triển Tâm bồ đề này.
4. Ngã giả định do Phái cực đoan nói Khi phân tích kỹ Bằng biện chứng pháp, Ở trong các uẩn [Của thân và tâm]. Không nơi nào thấy Chỗ trụ của nó.
5. Ngũ uẩn có đó, [Nhưng] nó vô thường, Không thể có được Bản thể của ngã. Thường và vô thường, Không thể tồn tại, Như là năng trú(1), Đối với sở trú.
6. Nếu cái ngã ấy Vốn không thực hữu Thì cái gọi là Tác nhân làm sao, Có thể thường còn ? Nếu là vật thể Thì ta phải có Khả năng nghiên cứu, Thuộc tính của nó Trên thế gian này.
(1) Năng trú là cái cho sự trú ẩn, sự hỗ trợ (e. the support), sở trú là cái được trú, được hỗ trợ (e. the supported).
7. Cái gì thường còn Thì không thể nào Vận hành [tạo nhân]. Cho dù từ từ Hay ngay tức khắc, Vì vậy cả hai Bên ngoài, bên trong, Không thể có một Thực thể thường còn.
8. Nếu nó toàn năng, Làm sao có thể Tùy thuộc thứ khác ? Và như vậy sẽ Tạo [nhất thiết pháp] Ra ngay lập tức. Tùy thuộc thứ khác, Thì chẳng thường còn, Và chẳng toàn năng.
9. Nếu ngã là một Thực thể, thì nó Không phải thường còn, Vì các thực thể Chỉ là tạm thời. Và đối với các Thực thể vô thường, Chẳng thể phủ nhận Là có tác nhân.
10. Thế giới này vốn Trống rỗng tự ngã v.v…, Mà nó lại bị Hoàn toàn chế ngự Bởi các khái niệm Về uẩn, giới, xứ Chủ thể, đối tượng.
11. [Chư Phật] tìm cách Lợi ích cho người Đã dạy Đệ tử: Ngũ uẩn gồm: sắc, Thọ, tưởng, hành, thức.
12. Đấng Lưỡng Túc Tôn Luôn luôn dạy thêm, ‘’Sắc uẩn vốn là, Bọt bèo như huyễn; Thọ như bọt nước; Tưởng như ảo ảnh;
13. Hành như cây chuối Thức như ảo thuật [Chư Phật] đã dạy Cho chư bồ tát Các uẩn như thế.
14. Chư Phật dạy rõ Sắc uẩn là do Tứ đại hợp thành, Nhất thiết xác định Các thứ còn lại Là phi sắc chất.
15. Trong các thứ đó Nhãn căn, sắc trần v.v…, Được giải thích là Hợp thành các giới, Cũng nên hiểu đó Là [mười hai] xứ Và cũng chính là Chủ thể, đối tượng.
16. Vi trần của sắc Không có hiện hữu, Căn thức chẳng có Ở chỗ nào khác; Hơn nữa, căn thức Để làm tác nhân Cũng không thực hữu; Cho nên cả hai Năng sanh, sở sanh, Hoàn toàn chẳng đúng Khi nói sinh ra.
17. Vi trần của sắc Vốn không thể nào Tạo ra căn thức, Bởi lẽ vi trần Vượt ngoài cảnh giới Của các căn thức. [Nếu nói] căn thức Sinh từ tập hợp Của các vi trần, [Sinh từ] tập hợp Ngay điều ấy cũng Không thể chấp nhận.
18. Qua sự chia chẻ Theo chiều không gian Thì ngay phương phần(2) Vẫn còn thấy là Chứa phần nhỏ hơn; Khi phân tích vật Thành ra các phần, Làm sao luận chứng Cho rằng nó là Vi trần nhỏ nhất [Bất khả phân chia] ?
19. Cùng một đối tượng Ở bên ngoài ta, Nhiều cách nhận thức Khởi sinh khác nhau; Cái gì thấy như Đẹp mắt người này, Nhưng với người kia Có khi khác hẳn.
20. Đối với cùng một Thân người phụ nữ Có thể nhận thức Bằng ba cách khác: Nhà tu nhìn thấy Là một thây ma, Tham ái nhìn ra Đối tượng ái dục, Còn chó [hoang] thấy Là miếng thịt ngon.
21. Giống nhau [nếu xét], Đối tượng vận hành Chẳng phải như là Thấy bị giết hại Ở trong giấc mơ ? Dù thức hay ngủ Chẳng có gì khác Khi xem xét cách Vận hành của vật.
22. Xét về chủ thể Và cả đối tượng Cái thấy trong thức, Ngoài chính nhận thức Đối tượng bên ngoài Chẳng có hiện hữu.
(2) Phương phần nghĩa là thành phần phương hướng. Xin tham khảo thêm các sách dịch của Tuệ Sỹ.
23. Do đó chẳng có Đối tượng bên ngoài Thực sự hiện hữu Như là thực thể. Chính các nhận thức Của tâm cá nhân Khởi thành sắc cảnh.
24. Như người vô minh Ảo giác, huyễn ảnh, Đều thấy có thực, Thành quách của quỷ Càn Thát Bà kia Tương tự, họ thấy Sắc và mọi thứ Hiện ra như thế.
25. Để vượt thoát khỏi Mê lầm chấp ngã [Phật] giảng về uẩn, Cảnh giới, các thứ. Nhờ trụ ở trong [Trạng huống] Duy thức Người có căn cơ Sau cũng buông bỏ [Cả giáo lý trên].
26. Những vị đề xướng Tông phái [Duy] thức, Thế giới biến hóa Là [duy] tâm tạo. Thế thì bổn tánh Của thức là gì ? Nay tôi thuyết giảng Chính đặc điểm này.
27. Mâu Ni tuyên thuyết ”Vạn pháp Duy Thức” Chỉ là phương tiện Làm bớt sợ hãi Cho người trí nhỏ; Chẳng phải [lời dạy] Sự thực [rốt ráo].
28. Biến kế sở chấp Và Y tha khởi Cùng Viên thành thật(3) Bản thể tự chúng Chỉ là tánh không. Danh hiệu như thế Đều là đặt ra Ở trong tâm thức.
29. Cho người vui với Pháp tu Đại thừa, Phật dạy tóm gọn Vô ngã trong tánh Bình đẳng viên mãn Và cũng dạy là, Tâm vốn bất sinh.
30. Chư vị đề xướng Du Già Hành tông Xác quyết là khi Tâm đã tịnh hóa [Nhờ] hàng phục tâm, Và qua chuyển hóa Toàn trạng thái đó Là nhập vòm cầu Của tự chứng phần(4).
(3) Là Tam Tự Tánh. (4) Mỗi thức và mỗi tâm sở đều có 4 phần: 1. Kiến phần (phần Năng phân biệt, tức là tác dụng thấy, nghe, hay biết các cảnh vật), 2. Tướng phần (phần bị phân biệt, tức là cảnh vật như núi, sông, đại địa, v.v ..., gọi là Sở phân biệt), 3. Tự chứng phần: phần này tự chứng minh cho Kiến phần, 4. Chứng tự chứng phần: Phần này chứng minh cho tự chứng phần.
31. Quá khứ chẳng còn; Tương lai chưa tới Trụ trong hiện tại Giòng tâm thường chuyển Thì làm sao có [Tự chứng phần kia] Ở trong hiện tại ?
32. Thể tánh các pháp -- Thật chẳng giống như Tướng trạng hiện hữu; Cái tướng thấy được-- Lại chẳng phải là Thể tánh của pháp! Tâm thức, vốn nó Trống rỗng tự ngã, [Cũng] thật chẳng có Nền tảng nào khác.
33. Khi đặt thỏi sắt Gần đá nam châm Sắt bị hút nhanh, Có vẻ như thể Là sắt có tâm, Mà thực ra là Nó chẳng có tâm.
34. Cũng vậy tạng thức Có vẻ như thật Mặc dù là sai. Cứ thế di chuyển Tới lui, ở trong [Ba cõi] luân hồi.
35. Cũng như biển kia Và khúc cây gỗ Di chuyển nổi trôi Nhưng chẳng sở hữu Một tâm nào cả, Cũng giống như thế Tạng thức chuyển động Tùy thuộc vào thân.
36. Nếu như, thấy rằng Không có thân ấy Thì thức không có. Vậy thì ông phải Giải thích là gì Tự chứng phần này Là đối tượng của Chứng tự chứng phần.
37. Gọi tự chứng phần Ông cũng khẳng định Nó là thực thể Thế nhưng khi nói ‘’Nó là thế đó’’ Ông cũng khẳng định Nó là vô năng.
38. Khi tự xác quyết Giúp người xác quyết Bậc trí luận giải Toàn hảo luôn luôn Không có sai lầm.
39. Năng kiến nhận biết Đối tượng sở kiến Nếu không sở kiến. Thì năng cũng không. Sao không chấp nhận: Chủ thể, đối tượng. [Đều] không thực hữu ?
40. Thức là giả danh; Ngoài danh thì nó Chỉ là trống rỗng. Hãy hiểu thức là Đơn thuần giả danh, Giả danh cũng là Không có tự tánh.
41. Bên ngoài, bên trong Hoặc ở khoảng giữa, Thế Tôn đều không Tìm ra được tâm. Nên tâm vốn có Bản tánh huyễn ảo.
42. Phân biệt sắc hình Chủ thể đối tượng, Nam, nữ, trung tính Tâm cũng chẳng có Dạng nào cố định.
43. Tóm lại, chư Phật Chẳng thấy và cũng Sẽ chẳng bao giờ Thấy được [tâm đó]; Làm sao chư vị Thấy có tự tánh Cái, tự bản chất, Vốn không tự tánh ?
44. “Tự tánh” chỉ là Khái niệm của tâm. Khi bặt khái niệm Tánh không hiện tiền; Khi khởi khái niệm Làm sao còn có Tánh không được nữa ?
45. Như Lai chẳng thấy Sở kiến, năng kiến; Khi khởi sinh ra Sở kiến, năng kiến Thì chẳng giác ngộ.
46. Vô tướng, bất sinh, Chẳng có tự tánh, (Đều bất khả thuyết). Hư không, Bồ Đề Giác ngộ đều có Đặc tính bất nhị.
47. Chư vị trụ tâm giác ngộ như là Chư Phật, Ðại Sĩ Chư Đại Từ Bi Đều biết thấu rõ Tánh không tương tự Như là hư không.
48. Do đó phải luôn Thiền quán tánh không: Nền tảng mọi pháp An tĩnh, như huyễn, Cùng vô sở trụ Đoạn diệt luân hồi.
49. Như là “bất sinh” “Tánh không”, “vô ngã” [Chấp] không [như thế] Những người thiền quán Chân lý thấp hơn, Chẳng phải [chân] quán.
50. Khái niệm thiện ác Là tướng [vô thưòng] Là tướng sinh diệt; Chư Phật đã giảng Tánh không của nó Ngoài ra chẳng có Tánh không nào khác.
|
|
|
Post by Admin on Sept 19, 2013 13:31:45 GMT 7
- 51. Tâm an trụ này
Chẳng có đối tượng(5) Được định nghĩa là Có những đặc tính Của cõi hư không; [Vậy] Họ chấp nhận Thiền định tánh không, [Thực] là thiền định Vào trong không xứ.
52. Tiếng gầm sư tử Tuyên thuyết tánh không, Đã làm kinh sợ Mọi giáo thuyết của Các luận sư khác. Dù họ ở đâu Tánh không vẫn luôn Ở đó chờ họ .
53. Những người chấp nhận Tâm thức tồn tại, Một cách nhất thời, Thì cũng phải nhận Nó chẳng thường còn, Nếu tâm vô thường, Ðâu thể phủ nhận Tánh không trong nó ?
54. Tóm lại, chư Phật Tuyên thuyết tâm này Vốn là vô thường. Sao họ chẳng nhận Tâm cũng là không ?
55. Từ chính khởi thủy Tâm này vốn dĩ Không có [tự] tánh. Chẳng phải nói là, Một thực thể kia Có tự tánh rồi [Không hiểu vì sao] Lại bị mất đi.
56. Nếu xác nhận thế Nghĩa là từ bỏ Chỗ của tự ngã Nằm ở trong tâm; Bản thể mọi pháp Chẳng thể vượt qua Tự tánh của nó.
(5) Không còn có đối tượng và chủ thể tức là “Lìa sở duyên cảnh”.
57. Cũng như vị ngọt Là tánh của đường Và sức nóng kia Là tánh của lửa. Như vậy xác định Tánh không chính là Thực tánh vạn pháp.
58. Nói tánh không là Thực tánh [các pháp], Không phải đề xướng Theo thuyết đoạn diệt; Cũng không đề xướng Theo thuyết thường kiến.
59. Vô minh khởi đầu Lão tử chấm dứt Chư pháp khởi từ Thập nhị nhân duyên, Ta phải nhận rằng Như mộng, như huyễn.
60. Mười hai nhánh của Bánh xe quay lăn, Lục đạo luân hồi; Ngoài ra chẳng có Chúng sinh thọ quả Của hành nghiệp đó.
61. Như tùy theo gương Mà hiện ra mặt, Khuôn mặt chẳng phải Nhập vào trong gương Nhưng nếu không gương Cũng không ảnh [mặt].
62. Cũng chính như thế Ngũ uẩn duyên hợp Mà thành thân mới; Người trí hiểu chắc Không ai tái sinh Thành một kiếp khác, Và không hề có Một người nào đó Chuyển sang kiếp ấy.
63. Tóm lại khởi từ Các pháp trống không Mà sinh pháp khác Cũng không như vậy; Tác nhân, hành nghiệp, Quả, người thọ quả - Đấng Thế Tôn thuyết Tất cả [chỉ] là Thuộc về tục đế.
64. Cũng như tiếng trống Và mầm cây mọc Khởi sinh từ các Tập hợp [phan duyên], Ta nhìn nhận rằng Ngoại cảnh duyên khởi Như là huyễn mộng Như là ảo ảnh.
65. Pháp do duyên sinh Chẳng thể mâu thuẫn [Đối với sự thật]; Vì nhân tự nó Trống rỗng phi nhân Ta hiểu nhân là Trống rỗng bất sinh.
66. Vạn pháp bất sinh Ðược tuyên dạy rõ Chính là tánh không; Tóm lại ngũ uẩn Được biểu thị bằng [Từ ngữ] “vạn pháp”
67. Khi [chân đế] được Tuyên thuyết như thế, Tục đế thế gian Chẳng bị chướng ngại Vì lìa tục đế, Chẳng thể tìm thấy [Chân] đế chỗ nào.
68. Chư tôn đã dạy Tục đế chính là Tánh không, chẳng khác Và tánh không cũng Chính là tục đế. Không có cái này Cái kia cũng không, Cũng như [khởi] sinh Chẳng khác vô thường.
69. Tục đế khởi nguồn Ra từ phiền não Và từ nghiệp quả, Còn nghiệp khởi sinh Từ tâm mà ra; Tâm do tích tụ Tập khí luyện thành, Trừ hết tập khí Phúc lạc hiện tiền.
70. Chính tâm an lạc Là chân tịch tĩnh, Tâm an không bị Rối loạn che mờ, Khi tâm không loạn Thì sẽ thấu được Thực tại chân như; Hiểu được chân như Là đạt giải thoát.
71. Cũng được gọi là Chân như, pháp giới Cũng là vô tướng Cũng là chân đế Tối Thượng Bồ Đề; Và cũng được gọi Chính là tánh không.
72. Người chưa quán triệt Tánh không là gì Chẳng thể lĩnh hội Cỗ xe giải thoát, Do đó người si Trôi lăn tù ngục Sáu cõi luân hồi.
73. Tánh không [đã giảng], Môn đệ Du Già Khi thiền định vào Chắc chắn tâm thức Sẽ khởi sinh lòng Phụng sự lợi lạc Cho chúng sinh khác.
74. “Tôi nguyện đền trả Ơn nghĩa chúng sinh Trong đời quá khứ Ðã từng ban phát Phúc lạc cho tôi, Khi ấy đã từng Là cha, là mẹ, Là các bạn bè.”
75. “Các chúng sinh này Ðang bị thiêu đốt Bởi lửa phiền não Tù ngục luân hồi, Vì tôi đã từng Trong đời [quá khứ] Làm khổ hại họ, Tôi nguyện [ngày nay] Mang đến cho họ An vui phúc lạc.”
76. Nghiệp quả mong muốn, Hoặc là kinh sợ, Thọ sinh kiếp lành Hay kiếp ác báo Trong thế giới này, Cũng đều đến từ Hành thiện, hay ác, Đối với chúng sinh.
77. Nương nơi chúng sinh Mà đạt đến được [Phật quả] tối thượng Không có gì lạ Khi thấy chẳng có Thọ báo lành nào Của cõi trời, người --
78. Phạm Thiên, Đế Thích, Thủ La, Hộ thần [Thế gian], ba cõi Mà chẳng do nhân Tạo phúc lợi đến Cho các chúng sinh ?
79. Như là địa ngục Súc sinh, ngạ quỷ, Thọ báo khổ đau Chúng sinh phải chịu Đều là do quả Tổn hại kẻ khác.
80. Đói, khát, chiến tranh Khổ đau tra tấn, Dày vò không dứt, Không chịu đựng nổi - Ðều là trả quả Não hại chúng sinh.
81. [Như là] Phật quả Và Bồ Ðề Tâm Thọ báo thân lành, [Ðó là một bên] Thọ báo kiếp dữ [Là phần bên kia] Do đó phải biết Hai loại [nghiệp] quả Chúng sinh thọ báo.
82. Hãy phát thiện tâm Phụng sự chúng sinh Bằng đủ mọi thứ; Che chở chúng sinh Như là thân mình, Hãy trừ bỏ tâm Thờ ơ đối với Chúng sinh hữu tình Như là độc dược.
83. Chẳng phải chính là Do lòng thờ ơ Chư Đệ Tử chỉ Đạt quả giác thấp ? Chư Phật toàn giác Chẳng bỏ chúng sinh. Cho nên đắc quả Vô thượng Bồ Đề.
84. Sau khi quán xét Quả do tạo phúc Hay là tạo ác, Làm sao có thể Dầu trong giây phút Khư khư làm lợi [Riêng] đến thân mình ?
85. Bám chắc trên rễ Của lòng từ bi, Khởi mầm giác ngộ, Tâm [Chân] Bồ Ðề Là quả duy nhất Của lòng từ bi - Ðiều này, Phật tử Cần phải tu dưỡng.
86. Tu kiên định rồi, Chư Bồ Tát thảy Đều kinh sợ cho Chúng sinh đọa khổ, [Chư Bồ Tát] nguyện Từ bỏ an lạc Của Tam Ma Đề, Ði xuống sâu vào Ðịa ngục Vô Gián.
87. Thực là kỳ diệu Thực đáng tán thán; Thánh đạo tối thượng ! Chư vị hiến thân Hay là tiền của Cũng chẳng ngạc nhiên.
88. So với chư vị Chứng đắc pháp không [Mà lại] tuân thủ Theo luật nhân quả, Thật là kỳ diệu Hơn cả kỳ diệu ! Lại còn phi thường Hơn cả phi thường !
89. Chư vị vì muốn Cứu độ chúng sinh, Dù sinh trong bùn Của cõi luân hồi, Mà không dính nhiễm, Như cánh hoa sen Mọc trong ao bùn Chẳng nhiễm mùi bùn.
90. Dù Bồ Tát như Phổ Hiền, đốt hết Củi của phiền não Bằng lửa trí tuệ Của chính tánh không, Mà vẫn thấm nhuần Tánh của từ bi.
91. Dưới lực từ bi, Chư vị hành hóa Tịch diệt, hạ sinh, Thọ báo an vui, Từ bỏ ngai vua Hành xác, khổ hạnh, Đắc đại giác ngộ Chiến thắng ma vương.
92. Chuyển vòng pháp luân, Nhập vào cõi thiên, Và cùng như thế Hành hoá vượt thoát Khỏi cõi não phiền.
93. Hoá thân Phạm Thiên, Đế Thích, Vi Nữu, Thủ La phẫn nộ, Chư vị thực hiện Vũ điệu từ bi Qua các hành hoá Ban phát an lành Cho các chúng sinh.
94. Ðối với những vị Chán luân hồi đạo, Chư tôn tuyên dạy Nhị trí tạm thời, Dẫn cho họ vào Con đường đại thừa, [Nhưng] đó chẳng phải Giáo pháp tối thắng.
95. Chư Phật chưa thúc Nên chư Đệ tử Mải trụ huệ thân Đắm nhiễm thiền duyệt.
96. Khi bị thúc gọi Chư vị xuất thiền Hoá thân nhiều dạng, Phát lòng quan tâm Phúc lợi chúng sinh. Công đức, trí tuệ Tích tụ đủ rồi Chứng đuợc Phật quả [Toàn giác] bồ đề.
97. Bởi vì tập khí Nhị [chướng] còn mang, Tập khí chính là Chủng tử [luân hồi]; Chủng tử và nhân Duyên hợp đầy đủ Mầm cây luân hồi Sinh thành kiếp sống.
98. [Đạo] đã khai thị Bởi đấng cứu độ Khế hợp tâm thức Khác nhau mỗi người Qua nhiều pháp môn [Chư Phật sử dụng].
99. [Giáo lý] muôn dạng Hoặc là thâm diệu Có khi quảng đại; Ðôi khi [giáo lý] Bao hàm cả hai; Du nhiều cách dạy Tựu chung giáo pháp, [Thảy] đều như nhau Cùng là tánh không Và tánh bất nhị.
100. Các câu thần chú(6), Các địa [Bồ tát], Cũng như trí tuệ Bát nhã chư Phật, Đấng Toàn Trí dạy : Tất cả đều là Các phương diện của Bồ Đề Tâm thôi.
(6) Thần chú hay tổng trì, e. retention powers.
101. Những vị luôn tạo Phúc lạc chúng sinh Bằng thân chính mình Hoặc là khẩu ý, Chư vị biện chứng Diệu lý tánh không, Chẳng thể tranh cãi Như thế là theo Chủ thuyết đoạn diệt.
102. Chư tôn Đại sĩ Không trụ Ta Bà Chẳng trụ Niết Bàn. Thế nên Chư Phật Dạy ở đây là : “Vô trụ” Niết Bàn.
103. Từ bi chỉ mang Một vị duy nhất Ðó là công đức; Vị của tánh không Là vị tối thắng Những người uống được [Thần dược tánh không] Hành hoá lợi lạc Cho các chúng sinh Chư vị thực là Con của Thế Tôn.
104. Ðảnh lễ chư vị, Với toàn thân mình, Trong ba cõi này Chư vị xứng đáng Là bậc tôn kính Là dẫn đạo sư Chư vị trụ thế Thay cho chư Phật.
105. Tâm Bồ Đề này Là [tối thắng] pháp Của đuờng Đại Thừa Hãy nên [kiên cố] Tinh tấn miên mật Phát tâm Bồ Đề.
106. Để thành tựu đến Phúc lạc cho người Và cả cho mình Chẳng còn cách nào Trong thế giới này Ngoài Bồ Đề Tâm Cho đến ngày nay Chư Phật thấy rõ Chẳng có pháp khác.
107. Chỉ nhờ phát nguyện Tâm thức Bồ Đề Tạo khối công đức Thật là to lớn Nếu như khối ấy Có một hình dạng Thì đầy hư không Vẫn không chứa hết.
108. Vị nào thiền định Vào Bồ Đề Tâm Dù trong giây phút Khối công đức [tạo] To lớn vô cùng Dù là chư Phật Cũng không đo xuể !
109. Tâm này thật quý Thoát khỏi phiền não Là hạt châu báu Tôn quý, duy nhất, Không thể bị hại Không thể bị mất Bởi tên trộm đạo, Ma vương phiền não.
110. Như là đại nguyện Của chư vị Phật, Và chư Bồ Tát Kiên cố chẳng sai, Cũng thế, người nào Thấm nhuần Bồ Đề Cần phải kiên cố Gìn giữ tâm này.
111. Hãy cố tinh tấn Với tâm phi thường Như đã giảng [trên]; Mai sau thành tựu Công hạnh Phổ Hiền [Ðạt đại giác ngộ].
112. Nhờ tán thán tâm Bồ Đề đã được Thế Tôn ban truyền Ðệ tử ngày nay Tích tụ vô lượng Công đức tán thán, Xin nguyện hồi hướng Ðến khắp chúng sinh Dập vùi bể khổ Của sóng luân hồi Mạnh bước tiến lên Trên đạo lộ của Chư Lưỡng Túc Tôn.
Đến đây chấm dứt văn bản Phát Bồ Đề Tâm Luận, trước tác bởi Tổ Long Thọ Bồ Tát. Dịch bởi học giả Ấn Độ Gunakara và dịch giả Tây Tạng Rabshi Shenyen. Sau đó, bản dịch đã được hiệu đính bởi học giả Ấn Độ Kanakavarman và dịch giả Tây Tạng Patsab Nyima Drak. Bản dịch Anh ngữ do Geshe Thupten Jinpa biên soạn. Bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác (Canada) biên soạn với sự cho phép của Geshe Thupten Jinpa.Geshe Thupten Jinpa đã soạn bản Anh ngữ để chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Thupten Dhargye Ling, là Trung Tâm Phật học và Văn hóa Tây Tạng, vào tháng 9, 2006 tại Long Beach, California, Hoa Kỳ.© Geshe Thupten Jinpa, 2007 © Sonam Nyima Chân Giác, 2010 Nguồn: www.vietnalanda.org/tchngthuyetgiang.html
|
|