Post by Admin on Sept 21, 2013 20:37:42 GMT 7
11. Mười hai chi trong thứ tự ngược chiều
Tiếp đến Ngài Long Thọ bắt đầu trình bày mười hai chi trong thứ tự ngược chiều:
Tụng 10
Gốc sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ vô minh: tác giả.
Kẻ trí thấy pháp tính
và không là tác giả.
Câu tụng này giải thích về thứ tự ngược chiều của mười hai chi duyên khởi, khẳng định người trí, bằng cách không vướng mắc trong những hành nghiệp (nghĩa là, những tác hành bị nhơ nhuốm bởi vô minh), nên không mãi mãi ở trong sinh tử luân hồi. Nghiên cứu thứ tự sinh khởi từ vô minh cho đến già và chết, chúng ta có thể tò mò muốn biết cái gì là gốc rễ của gánh nặng này chúng ta đang mang vác, tập hợp các uẩn, liên tục dìm chúng ta trong vũng bùn bất hạnh kém may mắn?
(Having studied the sequence of origination from ignorance to aging and death, we might wonder what is the root of this burden we carry, the collection of aggregates, which continuously mires us in misfortune?)
Tất cả đều do có sinh vì chính các uẩn bắt đầu chịu trách nhiệm xuyên qua nghiệp và những phiền não. Chúng ta không đinh ninh một cách không bằng chứng rằng các uẩn đều tự do và có năng lực chọn lựa; chúng ta bị bó buộc tuân theo sự ban phát mệnh lệnh của nguyên nhân của các uẩn của chúng ta – chi hữu.
( It is all due to having taken birth within aggregates assumed through karma and afflictions. || assume (1): start being responsible for (something)||. We do not assume the aggregates out of freedom and choice; we are obligated by the dictates of the cause of our aggregates – the link of becoming.|| assume (2): treat something as true but without proof)
(Còn như vào trước ra sau, Ai cho kén chọn, vàng thau tại mình. Nguyễn Du, 1765-1820).
Chi hữu cần chỉ thuần an lập trong tương tục tâm ý của chúng ta, và chúng ta không có năng lực chọn lựa nào khác ngoại trừ tái sinh. Sự an lập của chi hữu, kế tiếp, tùy thuộc sự tăng hoạt của nghiệp của chúng ta xuyên qua ái và thủ /chiếm hữu. Sự hình thành của ái và thủ, cũng giống như thế, cần đến sự chấp thủ của chúng ta vào hiện hữu thực hữu (true existence) của những cảm thọ lạc hoặc bất lạc của chúng ta. Sự sinh khởi của những cảm thọ như thế, kế tiếp, được tăng bổ khi hội tụ những đối tượng mong cầu, chẳng mong cầu, hoặc trung tính. Đây là xúc, sự hội tụ của đối tượng, quan năng cảm thức, và thức. Xúc như thế, kế tiếp, cần đến sự hiện diện trọn vẹn của sáu xứ/ sáu nhập (six sense spheres), chúng, kế tiếp, tùy thuộc vào danh và sắc –nói bằng các từ khác, năm uẩn tâm thân.( Sáu xứ/sáu nhập/sáu căn: xứ mắt, xứ tai, xứ mũi, xứ lưỡi, xứ thân và xứ ý. ĐHP)
Khi chi danh và sắc bị thúc đẩy bởi vô minh, nó trở thành nền tảng của đau khổ. Tuy nhiên, khi danh và sắc được thúc đẩy bởi những yếu tố như tâm tỉnh biết / tâm tỉnh thức / tâm bồ đề, nó xem những kẻ khác quý báu hơn chính mình, nên chúng chắc chắn sẽ không trở thành nền tảng cho đau khổ. Thế nên, vì danh và sắc thiết lập chi thứ tư, chúng phải bị thúc đẩy bởi những nguyên nhân sản sinh đau khổ. Các chi bắt đầu với danh và sắc được gọi là những hiệu quả bị thúc đẩy (propelled effects), và sự sinh khởi của danh và sắc cần đến sự hiện diện của một nguyên nhân đang thúc đẩy (propelling cause).
Những nguyên nhân đang thúc đẩy là gì? Đức Phật nhận diện đặc hữu ba chi đầu là những nguyên nhân đang thúc đẩy – chi thứ ba, thức, chi thứ nhì, hành nghiệp, và chi thứ nhất, vô minh. Tóm lại, danh-và-sắc sinh khởi căn cứ trên thức được ghi dấu với những tập khí nghiệp; và để thức đó sinh khởi, thì hành nghiệp được gây nên bởi vô minh -- hành nghiệp tích cực hoặc tiêu cực -- phải được tích lũy. Vô minh đó có thể là vô minh về quy luật của nghiệp trong phương diện hiệu quả tức thời, nhưng nguyên nhân tối hậu hoặc vô minh gốc rễ chính là ngu si vô trí chấp thủ vào hiện hữu thực hữu (true existence)
[Xin đọc: vô minh duyên cho hành, hành duyên cho thức, thức duyên cho danh sắc,… mỗi chi là một duyên, một nhân duyên ( nhân duyên= duyên có nguyên nhân) . Nên thường nói mười hai chi hay mười hai nhân duyên. ĐHP].
Đây là lí do tại sao khi giải thích mười hai chi duyên khởi, gốc rễ được tìm ngược tới vô minh. Tỉ dụ, khi ngài Thánh Thiên (Aryadeva) khẳng định trong bài tụng dưới đây rằng “thức” là hạt giống của sinh tử luân hồi, ngài chính yếu nghĩ đến vô minh là cốt lõi của thức đó:
Thức chính là hạt giống của hữu,
có các đối tượng là lãnh vực trải nghiệm của nó.
Khi thấy các đối tượng vô ngã,
hạt giống của hữu sẽ bị phá hủy. (XIV, 25) (= tụng 350)
Tiếp đến Ngài Long Thọ bắt đầu trình bày mười hai chi trong thứ tự ngược chiều:
Tụng 10
Gốc sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ vô minh: tác giả.
Kẻ trí thấy pháp tính
và không là tác giả.
Câu tụng này giải thích về thứ tự ngược chiều của mười hai chi duyên khởi, khẳng định người trí, bằng cách không vướng mắc trong những hành nghiệp (nghĩa là, những tác hành bị nhơ nhuốm bởi vô minh), nên không mãi mãi ở trong sinh tử luân hồi. Nghiên cứu thứ tự sinh khởi từ vô minh cho đến già và chết, chúng ta có thể tò mò muốn biết cái gì là gốc rễ của gánh nặng này chúng ta đang mang vác, tập hợp các uẩn, liên tục dìm chúng ta trong vũng bùn bất hạnh kém may mắn?
(Having studied the sequence of origination from ignorance to aging and death, we might wonder what is the root of this burden we carry, the collection of aggregates, which continuously mires us in misfortune?)
Tất cả đều do có sinh vì chính các uẩn bắt đầu chịu trách nhiệm xuyên qua nghiệp và những phiền não. Chúng ta không đinh ninh một cách không bằng chứng rằng các uẩn đều tự do và có năng lực chọn lựa; chúng ta bị bó buộc tuân theo sự ban phát mệnh lệnh của nguyên nhân của các uẩn của chúng ta – chi hữu.
( It is all due to having taken birth within aggregates assumed through karma and afflictions. || assume (1): start being responsible for (something)||. We do not assume the aggregates out of freedom and choice; we are obligated by the dictates of the cause of our aggregates – the link of becoming.|| assume (2): treat something as true but without proof)
(Còn như vào trước ra sau, Ai cho kén chọn, vàng thau tại mình. Nguyễn Du, 1765-1820).
Chi hữu cần chỉ thuần an lập trong tương tục tâm ý của chúng ta, và chúng ta không có năng lực chọn lựa nào khác ngoại trừ tái sinh. Sự an lập của chi hữu, kế tiếp, tùy thuộc sự tăng hoạt của nghiệp của chúng ta xuyên qua ái và thủ /chiếm hữu. Sự hình thành của ái và thủ, cũng giống như thế, cần đến sự chấp thủ của chúng ta vào hiện hữu thực hữu (true existence) của những cảm thọ lạc hoặc bất lạc của chúng ta. Sự sinh khởi của những cảm thọ như thế, kế tiếp, được tăng bổ khi hội tụ những đối tượng mong cầu, chẳng mong cầu, hoặc trung tính. Đây là xúc, sự hội tụ của đối tượng, quan năng cảm thức, và thức. Xúc như thế, kế tiếp, cần đến sự hiện diện trọn vẹn của sáu xứ/ sáu nhập (six sense spheres), chúng, kế tiếp, tùy thuộc vào danh và sắc –nói bằng các từ khác, năm uẩn tâm thân.( Sáu xứ/sáu nhập/sáu căn: xứ mắt, xứ tai, xứ mũi, xứ lưỡi, xứ thân và xứ ý. ĐHP)
Khi chi danh và sắc bị thúc đẩy bởi vô minh, nó trở thành nền tảng của đau khổ. Tuy nhiên, khi danh và sắc được thúc đẩy bởi những yếu tố như tâm tỉnh biết / tâm tỉnh thức / tâm bồ đề, nó xem những kẻ khác quý báu hơn chính mình, nên chúng chắc chắn sẽ không trở thành nền tảng cho đau khổ. Thế nên, vì danh và sắc thiết lập chi thứ tư, chúng phải bị thúc đẩy bởi những nguyên nhân sản sinh đau khổ. Các chi bắt đầu với danh và sắc được gọi là những hiệu quả bị thúc đẩy (propelled effects), và sự sinh khởi của danh và sắc cần đến sự hiện diện của một nguyên nhân đang thúc đẩy (propelling cause).
Những nguyên nhân đang thúc đẩy là gì? Đức Phật nhận diện đặc hữu ba chi đầu là những nguyên nhân đang thúc đẩy – chi thứ ba, thức, chi thứ nhì, hành nghiệp, và chi thứ nhất, vô minh. Tóm lại, danh-và-sắc sinh khởi căn cứ trên thức được ghi dấu với những tập khí nghiệp; và để thức đó sinh khởi, thì hành nghiệp được gây nên bởi vô minh -- hành nghiệp tích cực hoặc tiêu cực -- phải được tích lũy. Vô minh đó có thể là vô minh về quy luật của nghiệp trong phương diện hiệu quả tức thời, nhưng nguyên nhân tối hậu hoặc vô minh gốc rễ chính là ngu si vô trí chấp thủ vào hiện hữu thực hữu (true existence)
[Xin đọc: vô minh duyên cho hành, hành duyên cho thức, thức duyên cho danh sắc,… mỗi chi là một duyên, một nhân duyên ( nhân duyên= duyên có nguyên nhân) . Nên thường nói mười hai chi hay mười hai nhân duyên. ĐHP].
Đây là lí do tại sao khi giải thích mười hai chi duyên khởi, gốc rễ được tìm ngược tới vô minh. Tỉ dụ, khi ngài Thánh Thiên (Aryadeva) khẳng định trong bài tụng dưới đây rằng “thức” là hạt giống của sinh tử luân hồi, ngài chính yếu nghĩ đến vô minh là cốt lõi của thức đó:
Thức chính là hạt giống của hữu,
có các đối tượng là lãnh vực trải nghiệm của nó.
Khi thấy các đối tượng vô ngã,
hạt giống của hữu sẽ bị phá hủy. (XIV, 25) (= tụng 350)